TS.Vũ Thành Tự Anh: WB đã quen tô hồng bức tranh kinh tế Việt Nam?

Tiến sĩ đến từ Đại học Fulbright Việt Nam nhận định lập luận tăng thuế VAT không tác động nhiều lên người nghèo của Bộ Tài chính là phiến diện.

ts.vu thanh tu anh: wb da quen to hong buc tranh kinh te viet nam? hinh anh 1

Nguồn: Vũ Thành Tự Anh vẽ theo Số liệu Bộ Tài chính

Thứ trưởng Tài chính Vũ Thị Mai đã cho rằng tác động lên người nghèo khi tăng thuế VAT không nhiều. Một lần nữa, tôi xin khẳng định đây là 1 kết luận cực kỳ phiến diện.

Lý thuyết rất căn bản của kinh tế học, người nghèo có mật độ lương dành cho tiêu dùng cao hơn người giàu. Vì vậy gánh nặng thuế VAT họ phải chịu sẽ chiếm 1 mật độ cao hơn so có lương. Tăng thuế VAT dĩ nhiên sẽ làm người lương thấp bị tổn thương nhiều hơn.

Thực tế ở Việt Nam, trong khi 20% hộ giàu nhất có mức lương trung bình cao hơn tới 8,5 lần so có 20% hộ nghèo nhất (Theo Báo cáo Điểm lại, tháng 7.2014 của Ngân hàng Thế giới -WB, ở Việt Nam), mức đâyng thuế VAT của 20% hộ giàu nhất chỉ cao hơn chưa tới 4,5 lần so có 20% hộ nghèo nhất.

Có nghĩa là, nếu số liệu của WB là đúng thì gánh nặng thuế VAT so có lương của nhóm 20% hộ nghèo nhất sẽ bằng 1,9 lần so có nhóm 20% hộ giàu nhất. Do đây, khi thuế VAT giảm thì gánh nặng thuế của nhóm nghèo nhất sẽ giảm và ngược lại, khi thuế VAT tăng thì nhóm nghèo nhất sẽ phải chịu gánh nặng thuế cao hơn so có lương của họ.

Trong nền kinh tế, người nghèo bao giờ cũng là một số cánh chim cuối đàn. Các chuyên gia kinh tế quốc tế hay ví von, tốc độ bay của đàn chim không phải tùy thuộc vào một số con chim đầu đàn khỏe nhất mà thực ra lại tùy thuộc vào chính một số con chim yếu nhất ở cuối đàn.

“Vậy thì, một số chuyên gia hãy có trách nhiệm trong phát biểu của mình, đừng chỉ quen tô hồng bức tranh kinh tế Việt Nam và hùa theo chính sách bán hàng của nhà nước”.

Trả lời báo chí, ông Sebastian Eckhardt, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) ở Việt Nam cho rằng đề xuất cải một sốh chính sách bán hàng thuế của Bộ Tài chính là rất quan trọng và kịp thời để chắc chắn tăng trưởng bền vững và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo tôi, nhận định này có thể nhầm lẫn. Cụ thể, ông Eckhardt cho rằng, mật độ số thu thuế trên tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam đã giảm trong một số năm gần đây – từ 23,5% GDP năm 2010 xuống 18,3% GDP vào năm 2016. Nhưng thực ở là theo số liệu của Bộ Tài chính, mật độ này chỉ là 22,4%.

Ngoài ra, ông Eckhardt cho rằng Thuế lương công ty của Việt Nam giảm “từ 32% xuống 20%”. Thực tế ở đây, thuế suất trong năm 2010 (là năm gốc ông Eckhardt sử dụng để so sánh) chỉ là 25%. Mức thuế 32% là ứng dụng cho GĐ trước 1/1/2004.

Cũng như Bộ Tài chính, ông Eckhardt cho rằng nguyên do của thâm hụt ngân sách và nợ công là do hụt thu, lấy đây làm nguyên do để tăng thuế VAT và 1 số thuế khác nữa. Tuy nhiên, một sốh nhìn này rất phiến diện.

Thứ nhất, trong khi mật độ huy động từ thuế so có GDP giảm dao động 5 điểm phần trăm thì nguồn thu từ phí lại tăng 2,5 điểm phần trăm, khiến cho mật độ huy động từ thuế và phí cùng lại lên tới 21,8% GDP. Thứ hai, và quan trọng hơn, vấn đề thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam bắt nguồn chủ yếu từ việc tăng chi tiêu quá nhanh. Cụ thể là trong GĐ 2010-2015, trong khi tốc độ tăng thu ngân sách danh nghĩa trung bình chỉ là 9,5% thì tốc độ tăng của trả nợ gốc và lãi là 13,6%, còn của chi không ngừng nghỉ lên tới 16,7%. Nếu như vào năm 2010, chi không ngừng nghỉ chỉ chiếm 51,1% tổng chi ngân sách, thì đến năm 2015, mật độ này đã lên tới 61,5%.

Với tốc độ tăng chi tiêu vượt xa tốc độ tăng thu ngân sách bởi thế, kể từ năm 2012 trở đi, thu ngân sách (kể cả viện trợ) đã không đủ bù đắp chi không ngừng nghỉ và trả nợ. Hệ quả tất yếu là để có ngân sách cho đầu tư phát triển, chính phủ buộc phải đi vay. Nói một sốh khác, chính phủ cứ đầu tư thêm đồng nào thì ngân sách sẽ thâm hụt và nợ công sẽ tăng thêm đồng ấy. Như vậy, tăng chi chứ không phải giảm thu ngân sách mới là lý do chính của tăng thêm thâm hụt ngân sách và nợ công. Điều này có nghĩa là để giảm nợ công và thâm hụt ngân sách, điều Bộ Tài chính cần nhất không phải là tận thu ngân sách mà quan trọng hơn phải tiết giảm và tăng hiệu quả chi tiêu.

Cũng như Bộ Tài chính, chuyên gia của WB dẫn “bí kíp quốc tế” 1 một sốh rất thiên lệch khi chỉ nhắc một số nước châu Á có thuế suất VAT cao hơn Việt Nam mà “quên” không hề đề cập đến 1 thực ở hoàn toàn khác là thuế suất VAT ở Đài Loan chỉ là 5%, ở Thái Lan và Singapore (GST) là 7%.

Một vấn đề rất quan trọng, lôi kéo sự quan tâm của đông đảo người dân là thuế VAT sẽ tác động thế nào đến người nghèo. Chuyên gia WB cho rằng “thuế VAT thấp thực sự có lại lợi ích cho người giàu hơn người nghèo”. Tôi không biết từ bao giờ đại diện WB đã quen tô hồng bức tranh kinh tế Việt Nam, đi ngược lại có con các con phố gian nan của người nghèo, đối tượng mà chính WB nhắm đến để hỗ trợ?

Tìm hiểu thêm tài liệu dự án canhosunwahpearl.edu.vn

Bạn có thể click vào đây để so sánh toàn bộ giá của một số căn hộ bình thạnh

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0913.756.339