Logistics là gì? Thực trạng ngành logistics Việt Nam ? Một số thách thức, rào cản ? Giải pháp phát triển ngành logistics. Hãy cùng canhosunwahpearl.edu.vn tìm hiểu thông tin về Logistics là gì
Logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để cung cấp đề nghị của khách hàng.
Định nghĩa Logistics là gì ?
Điều 233 Luật thương mại nói rằng:
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc hiếm thời gian bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, hỗ trợ khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với quý khách hàng để hưởng thù lao.”
Logistics là tên gọi của dịch vụ logistics trong khoảng thời gian đầu cụm từ này mới xuát hiện tại Việt Nam. Hiện nay, ngay tại VN, phần đông những nhà chuyên môn đều đồng ý rằng dùng từ “hậu cần” để hỗ trợ logistics nhưng vẫn chưa sự thật nhận thức được đầy đủ ý nghĩa về từ logistics tân tiến và cho nên cách thức là hãy cứ để nguyên từ logistics trong ngôn ngữ nước ta, cũng như marketing, container…
Và, Thuật ngữ logistics cũng được sử dụng chính thức trong Luật thương mại 2005, và được phiên âm (một cách khá “ngộ nghĩnh”) theo tiếng Việt là “lô-gi-stíc”.
Xem thêm thông tin:
- Vận đơn là gì ? Các loại vận đơn ? #2020
- CO là gì ? Các loại CO chính ai cấp
- MSDS là gì ? Tờ khai MSDS cần phải có những thông tin gì ?
Vậy, chuẩn xác Logistics là gì?
Hiện có không ít định nghĩa học thuật về thuật ngữ logistics. Theo Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng (Council of Supply Chain Management Professionals – CSCMP), thì thuật ngữ này được định nghĩa khá đầy đủ như sau:
“Quản trị logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để cung cấp đề nghị của khách hàng. Hoạt động của quản trị logistics căn bản bao gồm quản trị vận tải hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện đơn hàng, thiết kế mạng lưới logistics, quản trị tồn kho, hoạch định cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. Ở một số mức độ khác nhau, các chức năng của logistics cũng bao gồm việc tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản xuất, đóng gói, dịch vụ khách hàng. Quản trị logistics là chức năng tổng hợp kết hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động logistics cũng như phối hợp hoạt động logistics với các chức năng khác như marketing, kinh doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin.”
Thực trạng ngành logistics Việt Nam
Logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng tầm quan trọng hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Logistics là hoạt động theo chuỗi dịch vụ từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến lúc hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Lĩnh vực này liên quan trực tiếp đến hoạt động vận tải, giao nhận, kho bãi, các thủ tục dịch vụ hành chính, giải thích (hải quan, thuế, bảo hiểm…), xuất nhập khẩu – thương mại, kênh phân phối, bán lẻ…
Phát triển dịch vụ logistics thành một ngành dịch vụ sẽ đem lại giá trị giá tăng cao, gắn dịch vụ logistics với phát triển sản xuất hàng hóa, xuất nhập khẩu và thương mại trong nước, phát triển cơ sở giao thông vận tải và công nghệ thông tin… Phát triển thị trường dịch vụ logistics lành mạnh sẽ khởi tạo cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp (DN) thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích lôi kéo vốn đầu tư trong và ngoài nước phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Theo Hiệp hội DN dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành logistics tại Việt Nam ở Việt Nam có khoảng những năm cách đây không lâu đạt khoảng 14%-16%, với qui mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm. Tham gia thị trường logistics gồm khoảng 3.000 DN trong nước và khoảng 25 tập đoàn giao nhận danh tiếng địa cầu kinh doanh dưới nhiều hình thức. Hiện nay, 30 DN cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam với các tên tuổi lớn như: DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics, CJ Logistics, KMTC Logistics…
Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 14-16%, đây chính là 1 trong các ngành dịch vụ tăng cường nhanh và ổn định nhất của Việt Nam trong khoảng thời gian qua.
Dự báo, đến hết năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam ước đạt mức 300 tỷ USD, hàng container qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 67,7 triệu TEU, do vậy, tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam là rất lớn. Trong tương lai không xa, dịch vụ cung cấp logistics sẽ phát triển thành ngành kinh tế quan trọng, có thể đóng góp tới 15% GDP của cả nước.
Đặc biệt, thời gian gần đây đã có sự bùng nổ về thương mại điện tử và e-Logistics. Theo Cục Thương mại điện tử và kinh tế số của Bộ Công Thương, thương mại điện tử tăng cường 35%/năm; doanh số bán lẻ thương mại điện tử của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 ước tính tăng 20%/năm và tổng doanh số bán lẻ thương mại điện tử Việt Nam dự định đạt 10 tỷ $ vào năm 2020. Những thay cho đổi trong thương mại điện tử trên địa cầu và tại Việt Nam đã thúc đẩy ngành logistics Việt Nam cải thiện phương thức cung cấp dịch vụ càng ngày càng chuyên nghiệp và hiệu quả hơn.
Cơ hội thúc đẩy phát triển ngành logistics
Hiện nay, Việt Nam được đánh giá có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ Logistics. Cụ thể, hệ thống cơ sở giao thông đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với qui mô lớn, rộng khắp. Cùng với đó, các dịch vụ đi kèm đã, đang cung cấp kịp thời những đề nghị hết sức đa dạng của thị trường. Các thủ tục, thời gian thông quan đối với hàng xuất khẩu cũng đã cải thiện đáng kể.
Năm 2017, thời gian thông quan hàng xuất khẩu là 105 giờ, hàng nhập khẩu là 132 giờ. Việt Nam cũng đang đứng thứ 39/160 nước về chỉ số hoạt động logistics và đứng thứ 3 trong ASEAN chỉ sau Nước Sing và Thái Lan… Những yếu tố đó đã tạo điều kiện cho DN phát triển, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu; hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics toàn diện, đa dạng và càng ngày càng chuyên sâu hơn, góp phần quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế.
Công tác hoàn thiện quy tắc pháp luật thời gian qua đã được Chính phủ quan tâm. Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế ngày dần sâu rộng của Việt Nam, nhất là việc thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đòi hỏi phải có những quy tắc phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho ngành Dịch vụ logistics phát triển, đẩy mạnh đầu tư trong nước và hợp tác quốc tế.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực tranh giành và phát triển ngành Dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Trong đó, đề ra 06 mục tiêu, 60 nhiệm vụ xác thực với rất nhiều giải pháp toàn diện, nhằm đưa ngành này vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
Ngày 30/12/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2017/NĐ-CP chuẩn mực về kinh doanh dịch vụ logistics (có hiệu lực từ ngày 20/02/2018), thay cho thế Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 chuẩn mực chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Việc ban hành Nghị định đó đã bao quát toàn diện các dịch vụ logistics, nội luật hóa các cam đoan quốc tế về logistics như đề ra trong Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics đến năm 2025. Đây là bước tiến mới trong các việc cải cách thể chế liên quan đến ngành Dịch vụ logistics cũng như có các chuẩn mực chính xác về đầu tư phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam.
Ngày 06/07/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành Kinh tế Việt Nam và đây là lần đầu Việt Nam có mã ngành logistics riêng (Mã 52292: Logistics). Ngày 18/07/2018, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Chỉ thị số 21/CT-TTg về đẩy mạnh triển khai các biện pháp nhằm giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông… Chính phủ đã thể hiện rõ cam đoan hỗ trợ, kiến tạo môi trường thuận lợi, để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam.
Một số thách thức, rào cản
Ngành logistics nói chung, các DN logistics kể riêng của Việt Nam hiện còn phải đối diện với không ít thách thức, rào cản, cụ thể:
Một là, thể chế, chính sách đối với lĩnh vực logistics chưa đồng bộ, còn tồn tại một số bất cập. Liên quan đến khung khổ pháp lý đối với ngành logistics, giai đoạn này có khá nhiều văn bản, song các chính sách cụ thể, chi tiết hóa các cụ thể các chủ trương đó vẫn chưa được thực hiện hoặc còn chồng chéo.
Hai là, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải còn yếu kém, không đồng bộ, chưa gây ra hành lang vận tải đa phương thức trong những khi nhu cầu trung chuyển rất chất lượng cho hàng hóa giữa các phương thức đang ngày càng lớn. Việt Nam còn thiếu nhiều khu kho vận tập trung tọa lạc tại chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, đường quốc lộ, cơ sở sản xuất; Mất cân đối cung và cầu tại những cảng biển miền Nam.
Thực tế cũng cho thấy, việc nối kết các phương thức vận tải chưa hiệu quả; chưa phát huy tốt các nguồn lực về hạ tầng, con người, thị trường nội địa và khu vực; các trung tâm logistics đóng vai trò nối kết Việt Nam với quốc tế không được đầu tư, xây dựng… gây ra kinh phí logistics còn cao, chiếm 25% GDP (so với những nước phát triển chỉ từ 9 đến 15%) trong đó, kinh phí vận tải chiếm 30 đến 40% giá thành sản phẩm (tỷ lệ này là 15% ở các quốc gia khác). Điều này làm giảm khả năng tranh đua dịch vụ, hàng hóa của những DN Việt Nam, ảnh hưởng đến sức tranh đua của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Ba là, hoạt động của chính các DN logistics còn nhiều hạn chế cả về quy mô hoạt động, vốn, nguồn nhân lực… Các DN đáp ứng dịch vụ logistics ở Việt Nam phần lớn là những DN nhỏ và vừa, hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics còn manh mún, thiếu kinh nghiệm và chuyên nghiệp, đáp ứng các dịch vụ cơ bản, hoặc đáp ứng từng dịch vụ đơn lẻ, tranh đua về giá là chủ yếu, ít giá trị gia tăng, thường chỉ đóng vai trò là nhà thầu phụ hay đại lý cho những cty nước ngoài gồm: Dịch vụ logistics chủ yếu mà các DN kinh doanh logistics Việt Nam đáp ứng cho khách hàng là dịch vụ kho bãi, vận tải hàng hóa, giao nhận hàng hóa, bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho… còn các dịch vụ khác trong chuỗi dịch vụ logistics dù cho có một vài DN đáp ứng nhưng số lượng không nhiều và không được để ý phát triển. Bên cạnh đó đó, còn thiếu sự nối kết giữa DN xuất khẩu và DN logistics do thói quen nhập khẩu CIF và xuất khẩu theo FOB. Khả năng tranh đua của những DN nội địa cũng còn thấp so với DN ngoại.
Bốn là, nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ logistics chưa qua đào tạo bài bản còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng yêu cầu, đặc trưng thiếu các chuyên viên logistics giỏi có năng lực ứng dụng và triển khai tại những DN nghiệp. Trong số các DN nội địa hiện nay, có tới 93 – 95% người lao động không được phép đào tạo bài bản, chủ yếu làm dịch vụ ở các chuỗi đáp ứng nhỏ như: Giao nhận, kho bãi, xử lý vận đơn…
Giải pháp phát triển ngành logistics
Theo Kế hoạch hành động nâng cao năng lực tranh đua và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, Việt Nam phấn đấu tỷ trọng đóng góp của ngành Dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%, tốc độ tăng tốc dịch vụ đạt 15%-20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, kinh phí logistics giảm tải tương đương 16%-20% GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên. Với mục tiêu đưa Việt Nam trở nên một đầu mối logistics của khu vực, trong thời gian tới cần tập trung triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics. Theo đó, sửa đổi một vài quy định, bổ sung về dịch vụ logistics tại Luật Thương mại, tạo cơ sở pháp lý tiện lợi cho hoạt động logistics. Sửa đổi, ban hành mới các chính sách, pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics, vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới. Bao quát toàn diện các dịch vụ logistics, nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics…
Hai là, ban hành các chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành Dịch vụ logistics phát triển. Theo đó, xây dựng chính sách trợ giúp phát triển dịch vụ logistics tại địa phương hiệu quả, thích hợp với luận điểm kinh tế – xã hội của từng địa phương. Hỗ trợ DN dịch vụ logistics, đặc trưng là các DN nhỏ và vừa, tiện lợi trong những việc tiếp cận các nguồn vốn trong và ngoài nước, phát triển thị trường, đào tạo, tiếp cận thông tin.
Ưu tiên bố trí ngân sách trợ giúp nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật cho phát triển dịch vụ logistics, xã hội hóa nguồn lực cho phát triển dịch vụ logistics, góp phần nâng cao năng lực và khả năng tranh giành của những DN đáp ứng dịch vụ logistics. Hỗ trợ xây dựng những tập đoàn mạnh về logistics, đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài và xuất khẩu dịch vụ logistics, tạo định hướng và động lực phát triển thị trường. Rà soát các cam kết quốc tế về dịch vụ logistics tại WTO, ASEAN và các hiệp định thương mại tự do (FTA), từ đó trợ giúp DN nâng cao năng lực đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng, xử lý tranh chấp liên quan đến hoạt động logistics…
Ba là, hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics, bằng việc tiếp tục rà soát các quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành Dịch vụ logistics. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch, cơ cấu sản xuất địa phương gắn với phát triển hạ tầng và dịch vụ logistics, đảm bảo các quy hoạch, lên kế hoạch về giao thông, vận tải thích hợp với những chiến lược, quy hoạch về sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của những địa phương, gắn kết quy hoạch về trung tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại quan trong một tổng thể thống nhất. Tăng lưu lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, đường thủy nội địa, đường sắt và đường hàng không. Phát triển hệ thống vận chuyển nhằm đáp ứng xu thế phát triển của thương mại điện tử, trong đó chú tâm đến giao hàng chặng cuối.
Ba là, nâng cao năng lực DN và chất lượng dịch vụ. Cần có cách thức hỗ trợ giúp các DN Việt Nam hiểu rõ và nhận thức đúng về quy trình đáp ứng các dịch vụ logistics, đặc trưng là trong quá trình vận tải; Đào tạo có hệ thống nguồn nhân lực có kinh nghiệm và được trang bị đầy đủ những kiến thức chuyên môn, am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế. Khuyến khích DN trong một số ngành (dệt may, da giày, đồ gỗ, nông sản, cơ khí – chế tạo…) tiến hành mô hình quản trị chuỗi đáp ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú tâm triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và các công nghệ mới trong logistics.
Về phía DN, ngoài nguồn nhân lực rất cần phải nâng cao trình độ ngoại ngữ công nghệ để đáp ứng với việc hội nhập các DN cần đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp và không ngừng mở rộng hệ thống kho bãi, trang thiết bị nội thất bốc xếp, vận chuyển chuyện dụng và các dịch vụ trợ giúp khác; Liên doanh, liên kết với những DN trong và ngoài nước để kết nối, không ngừng mở rộng mạng lưới dịch vụ trong toàn quốc và trên toàn cầu để tạo đầu ra thị trường ngoài nước và nâng cao khả năng chuyên môn của cán bộ để từ đó nâng cao tính tranh giành trong hoạt động kinh doanh.
Thông qua các hoạt động này nhằm nâng cao năng lực DN, khuyến khích, trợ giúp DN trong một số ngành tiến hành mô hình quản trị chuỗi đáp ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú tâm triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng công nghệ thông tin và các công nghệ mới trong logistics.
Bốn là, phát triển thị trường dịch vụ logistics. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho dịch vụ logistics trải qua việc đăng cai, tổ chức các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế về logistics. Tổ chức các đoàn nghiên cứu kỹ ra nước ngoài và mời các đoàn DN nước ngoài vào Việt Nam trao đổi thời cơ đầu tư, hợp tác về phát triển dịch vụ logistics. Đẩy mạnh tuyên truyền cho những DN sản xuất, xuất nhập khẩu và thương mại nội địa về việc sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài theo hướng chuyên môn hóa, phân công lao động hợp lý trong chuỗi cung ứng.
Đặc biệt, tập trung cải thiện hạ tầng cơ sở logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển trên toàn cầu và khu vực. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho cả DN lẫn cơ quan quản lý để phục vụ sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ logistics.
Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực logistics. Tiếp tục không ngừng mở rộng nối kết hạ tầng logistics với những nước trong khu vực ASEAN, Đông Bắc Á và nhiều khu vực khác trên toàn cầu nhằm phát huy tác dụng của vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới và quá cảnh. Xây dựng công trình giao thông, kho bãi, trung tâm logistics trên các tuyến đường, hành lang nối kết các cảng của Việt Nam với Lào, Campuchia, Thái Lan và Nam Trung Quốc.
Đẩy mạnh phát triển loại hình vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới, nhất là đối với hàng hóa quá cảnh. Hình thành các trung tâm logistics ở nước ngoài làm đầu cầu, tập trung và phân phối hàng hóa Việt Nam đến các thị trường quốc tế. Tăng cường liên kết với những hiệp hội và DN dịch vụ logistics khu vực ASEAN và trên thế giới. Vận động thu hút đầu tư xây dựng trung tâm logistics để xúc tiến xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam với thị trường toàn cầu, nhằm hình thành các trung tâm logistics ở nước ngoài làm đầu cầu, tập trung và phân phối hàng hóa Việt Nam đến các thị trường quốc tế.