Tăng thuế BVMT là đẩy gánh nặng thu ngân sách lên vai người nghèo

(Canhosunwahpearl.edu.vn) Trao đổi có mục “Góc nhìn chuyên gia” của Canhosunwahpearl.edu.vn, TS. Đinh Tuấn Minh, chuyên gia kinh tế, cho rằng đề xuất tăng thuế BVMT có xăng, dầu của Bộ Tài chính thực ở nhằm tìm 1 sốh tăng thu cho ngân sách. Sắc thuế này tác động trực tiếp tới người nghèo do nhu cầu lưu thông cao hơn và chẳng thể tìm được sản phẩm thay thế.

Tăng thuế bảo vệ môi trường để nhằm tăng thu ngân sách!

Thưa ông, ngay đầu năm mới, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo không tăng thuế, phí đối có 1 số mặt hàng thiết yếu do nhà nước quản lý. Nhưng sau đó, Bộ Tài chính lại đề xuất tăng thuế BVMT có xăng, dầu và 1 số mặt hàng khác từ tháng 7.2018. Ông phân tách như thế nào về đề xuất của Bộ Tài chính trong bối cảnh giai đoạn này?

– Trước tiên, về ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Trong bối cảnh giai đoạn này, xu hướng tăng giá hàng hoá không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà đang diễn ra ở nhiều nước trên địa cầu, từ Mỹ tới châu Âu. Tất cả đều cảm thấy giá cả đang tăng trở lại cùng có đà bình phục của kinh tế.

tang thue bvmt la day ganh nang thu ngan sach len vai nguoi ngheo hinh anh 1

Trong khi đó, Việt Nam là 1 quốc gia có độ mở tương đối lớn. Vậy nên, vviệc giá hàng hóa địa cầu tăng sẽ dẫn tới mặt bằng giá chung được nâng lên là rất đáng kể. Đặc biệt trong bối cảnh giai đoạn này, VND có thể mất giá so có USD nếu FED có sự điều chỉnh tăng lãi suất căn bản.

Nói bởi thế để thấy chính bản thân giá cả hàng hóa tính bằng đồng USD đã tăng rồi, đồng tiền của chúng ta hoàn toàn có thể bị mất giá theo USD nữa, khiến giá cả 1 số mặt hàng trong nước chịu ảnh hưởng theo.

Một đặc điểm khác của kinh tế Việt Nam là tiền tệ mở rộng ở mức tương đối trong 2 năm qua, điều này nhiều khi sẽ không tác động tới giá cả ở thời điểm giai đoạn này, mà cùng dồn, tạo ảnh hưởng về sau.

Những nhân tố đó sẽ tạo nguy cơ về lạm phát năm 2018 cao hơn so có mức Quốc hội, Chính phủ đặt ra là 4%. Chính vì vậy, Thủ tướng đã có các lưu ý có 1 số Bộ, ngành về mặt điều hành giá cả để tránh các cú sốc cho nền kinh tế.

Nói bởi thế để thấy giá cả trong nước vốn đã chịu sức ép tăng giá, nếu giờ lại có sự điều chỉnh giá 1 số mặt hàng thiết yếu theo hướng tăng 1 1 sốh dồn dập: giá điện, giá xăng dầu… sẽ giống như việc chúng ta “châm ngòi”, tạo mồi dẫn gây ra lạm phát giá cả. Chỉ cần kích thích 1 chút thôi, nhưng cũng đủ để tạo ra cú đẩy đối có mặt bằng giá cả.

Còn về đề xuất tăng thuế BVMT có xăng, dầu và 1 số mặt hàng khác của Bộ Tài chính, Bộ phụ trách quản lý thu – chi NSNN. Nếu nhìn vào toàn bộ 1 số tờ trình của Bộ Tài chính, sẽ thấy việc tăng thuế BVMT là để bù đắp phần thuế xuất nhập khẩu bị cắt giảm.

Có thể hiểu đề xuất tăng thuế bảo vệ môi trường nhằm mục đích bù đắp nguồn cho ngân sách thay vì sử dụng tiền đó cho mục đích bảo vệ môi trường?

– Bản chất của thuế BVMT ở Việt Nam không phải là khoản thuế sau khi thu về, sẽ được dùng để chi tiêu trong 1 lĩnh vực, hay cho 1 mục đích cụ thể nào đó. Nó sẽ hòa chung vào NSNN để sử dụng chi cho 1 số vận hành khác. Chi cho bảo vệ môi trường chỉ là 1 đầu mục nhỏ trong đó. Trên danh nghĩa là thu thuế BVMT, nhưng thực ra nó có thể là thuế để bù đắp cho việc cắt giảm thuế xuất nhập khẩu.

“Những giải trình Bộ đưa ra khi đề xuất tăng thuế BVMT không thuyết phục. Nếu thẳng thắn thừa nhận do NSNN bị giảm do nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu bị cắt giảm, dẫn tới phải tăng 1 số sắc thuế khác có lẽ sẽ hợp lý và thuyết phục hơn”, TS. Đinh Minh Tuấn.

Về tác động tới nền kinh tế, nếu so sánh tổng thể việc cắt giảm sắc thuế này, tăng sắc thuế kia thì sẽ không có tác động. Ví dụ như có mặt hàng xăng, dầu, khi chúng ta cắt giảm phần thuế nhập khẩu xăng, dầu từ Trung Quốc, Hàn Quốc hay 1 số nước trong khu vực ASEAN rồi tăng thuế BVMT để bù vào thì sẽ không tạo ra ảnh hưởng.

Song khi Bộ Tài chính thực hiện việc tăng thu NSNN thông qua thuế BVMT sẽ khiến dư luận nhầm lẫn thông điệp về bảo vệ môi trường. Vì số tiền thu về không dùng nhiều cho mục đích bảo vệ môi trường, mà dùng cho vận hành chi khác. Trong 1 số báo cáo của mình, Bộ Tài chính không giải trình được điều này.

Bộ Tài chính tính toán, tổng số thu thuế BVMT chuẩn bị dao động 57.312 tỷ đồng/năm, tăng dao động 15.684,2 tỷ đồng/năm. Bên cạnh việc tăng thu cho NSNN, điều này ngược lại sẽ tạo tác động thế nào tới vận hành của 1 số thành phần kinh tế và chi tiêu của 1 số hộ gia đình, thưa ông?

– Thuế đối có mặt hàng xăng, dầu gần như là 1 sắc thuế ép buộc tính trên đầu người bởi hầu hết gia đình đều phải sử dụng 1 số phương tiện giao thông phục vụ nhu cầu lưu thông. Vậy nên, nó là tác động trực tiếp, không ai có thể tránh được. Số tiền tăng thu 15.684,2 tỷ đồng/năm chính là số tiền do người dân, công ty bỏ ra.

tang thue bvmt la day ganh nang thu ngan sach len vai nguoi ngheo hinh anh 2

Tăng thuế BVMT đối có xăng dầu sẽ tác động trực tiếp tới người nghèo (Ảnh: IT)

Điều này không khác việc chúng ta tăng giá điện. Cả hai đều tạo phản ứng dây chuyền để gây tăng kinh phí của vô số hàng hóa khác. Tất cả sẽ cùng hưởng, kích thích nguy cơ lạm phát đã có sẵn.

Việc tăng thuế BVMT lên 4.000đ có xăng, dầu có nghĩa chúng ta là nâng mặt bằng giá chung. Đối tượng chịu ảnh hưởng trước tiên là 1 số công ty vận tải. Sau khi chịu ảnh hưởng, 1 số công ty vận tải dĩ nhiên sẽ không đón nhận bị giảm doanh thu, lợi nhuận. Họ sẽ có giải pháp để thu số kinh phí tăng lên do tăng thuế từ 1 số đối tượng sử dụng dịch vụ vận tải.

Điều này tiếp tục dẫn tới 1 số đối tượng sử dụng dịch vụ vận tải phải cắt giảm ngân sách chi tiêu của mình, hoặc cắt giảm chi tiêu khác đề bù đắp cho sự tăng giá dịch vụ vận tải. Đây là 1 phản ứng dây chuyền khi chịu tác động của tăng giá.

Tất cả công ty đều nhìn thấy viễn cảnh này, chỉ có điều các loại hình, đối tượng công ty khác nhau sẽ có 1 sốh điều chỉnh khác nhau để san sẻ, đẩy khoản kinh phí tăng lên này cho các đối tượng khác cùng gánh chịu. Doanh nghiệp nào không thực hiện được sẽ chịu ảnh hưởng, mất phí nhiều hơn.

Bộ Tài chính không nhắc tới tác động của việc tăng thuế BVMT đối có 1 số công ty trong Báo cáo phân tách tác động có thể là 1 khiếm khuyết trong quá trình nghiên cứu, phân tách tác động của Bộ bởi ai cũng biết việc này sẽ ảnh hưởng tới hàng triệu công ty

Người nghèo sẽ chịu ảnh hưởng nhiều hơn người giàu

Các chuyên gia từng chỉ ra rằng người nghèo sẽ chịu ảnh hưởng nhiều hơn người giàu khi tăng thuế suất thuế GTGT (VAT). Vậy đối có trường hợp tăng thuế BVTM có xăng, dầu thì sao?

Thực tế khó để phân tách chính tác tác động của việc tăng thuế đối có người nghèo và người giàu. Việc phân tách sẽ tùy thuộc rất nhiều vào quan điểm của người tính toán, phân tách.

Trong trường hợp tăng thuế suất thuế GTGT (VAT). Nếu ở thời điểm giai đoạn này, tính toán 1 1 sốh tương đối thì người nghèo sẽ chịu thiệt nhiều hơn so có người giàu khi thuế suất tương đối lên lương của người nghèo cao hơn người giàu. Nói 1 sốh khác là thuế VAT ở Việt Nam đang có tính lũy thoái rất cao và so có tỷ phần lương thì người giàu đang phải nộp thuế ít hơn so có người nghèo.

tang thue bvmt la day ganh nang thu ngan sach len vai nguoi ngheo hinh anh 3

TS. Đinh Minh Tuấn, chuyên gia kinh tế (Ảnh: Hoàng Thắng)

Ví dụ, người giàu mất thêm 160.000 đồng/tháng để nộp cho phần tăng thêm của thuế suất thuế GTGT nhưng lương của họ là hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng mỗi tháng. Còn người nghèo chỉ mất thêm 26.000 đồng/tháng để nộp cho phần tăng thêm của thuế suất thuế GTGT nhưng lương của họ chỉ vỏn vẹn vài triệu đồng thì mức độ ảnh hưởng người nghèo phải phải chịu vẫn lớn hơn.

Còn trường hợp tăng thuế BVMT có xăng, dầu và 1 số mặt hàng khác lại rất khác. Các sắc thuế áp có xăng dầu là loại thuế đánh vào mặt hàng thiết yếu, gần như có tính chất ép buộc như tôi đã giải đáp phía trên.

Trong trường hợp nâng thuế BVMT có xăng dầu người nghèo cũng khó có khả năng tiết kiệm được hay chờ mong được hưởng lợi ích lâu dài. Bởi chính bản thân họ nhiều khi còn có nhu cầu lưu thông, vận chuyển nhiều hơn so có người giàu để có 1 mức lương cao hơn.

Cũng chính bởi xăng, dầu là hàng hóa thiết yếu nên người dân chẳng thể không sử dụng chúng, chẳng thể chọn lọc dịch chuyển từ sử dụng xa xỉ phẩm sang hàng hóa thông thường như trường hợp của nhiều hàng hóa khác.

Không các về mặt tuyệt đối, mà ở mặt tương đối và nhìn về lâu dài, người nghèo vẫn chịu thiệt nhiều hơn 1 số đối tượng có lương cao hơn. Đó là lý thuyết chung đối có 1 số sắc thuế tiến hành cho các mặt hàng thiết yếu.

Việc tăng thuế BVMT theo Bộ tài chính là nhằm tăng thu ngân sách, nhưng lại đẩy gánh nặng lên vai người tiêu dùng, người dân. Cách làm này có vẻ như không hợp lý. Vì Nhà nước tham dự 1 số hiệp định thương mại tự do, để cắt giảm thuế để có lợi cho công ty, nhưng lại đặt trách nhiệm thu ngân sách lên vai người dân. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào?

– Đây là 1 ý đúng. Không chỉ nước ta mà hầu hết 1 số nước đều bởi thế. Chính phủ sẽ tìm các nguồn thu mà họ dễ thu. Xăng dầu là hàng hóa có tính ép buộc nên dĩ nhiên là 1 trong các nguồn thu tiện dụng nhất.

tang thue bvmt la day ganh nang thu ngan sach len vai nguoi ngheo hinh anh 4

Nguồn: Bộ Tài chính

Bất kì hàng hóa thiết yếu nào cũng có thể tăng thu thông qua các nguyên do như bảo vệ môi trường. Ví dụ có thể đánh thuế có việc tiêu thụ điện có nguyên do bảo vệ môi trường bởi năng lượng điện được tạo ra từ than đá, khí môi trường xung quanh, thủy điện.

Thuế bảo vệ môi trường không phải ngân sách riêng mà hòa chung vào tổng thể ngân sách nên nó chỉ là 1 lí do để cơ quan nhà nước thu và việc thu rất dễ. Ai mua xăng, trả tiền thì trạm xăng dầu sẽ thu hộ cho nhà nước. Đó là xu hướng của nhà nước.

Còn vấn đề cân đối ngân sách nằm ở việc phải giảm được chi, nhất là chi không ngừng nghỉ. Nhưng đó là 1 việc rất khó, trừ khi Chính phủ thực hiện cực kỳ quyết liệt. Còn nếu làm nửa vời, gắng sức cân bằng giữa 1 số phe nhóm thì không có 1 sốh nào giảm chi cả. Bởi ai cũng cần chi tiêu, năm nay tiêu 1 đồng thì năm sau phải tiêu 1,2 đồng, rất khó giảm xuống.

Khi không cắt giảm được số chi và 1 số khoản chi, ép buộc phải tăng thu để cân đối ngân sách. Ở đó có 1 câu chuyện là anh không giảm chi được thì phải tăng thu, tăng thu không được thì buộc phải tăng vay. Nhưng vay nhiều thì lại vướng trần nợ công của Quốc hội, Chính phủ giai đoạn này cũng đang tìm 1 sốh mở rộng mẫu số – tăng GDP để giảm trần nợ công.

Về câu chuyện tăng thu, dĩ nhiên phải tìm phương án dễ nhất. Ở đó có hai sắc thuế có thể giúp tăng thu là tăng thuế GTGT và tăng thuế xăng, dầu.

Dù việc tăng thuế GTGT thời gian qua bị dư luận phản ứng khá mạnh nhưng tôi vẫn cho rằng đó là 1 sốh tăng thu hợp lý hơn cả. Tác động của việc tăng thuế GTGT cũng ít tác động tới người nghèo hơn so có tăng thuế xăng, dầu.

Tôi đón nhận có Bộ Tài chính và World Bank ở quan điểm cần phải dịch chuyển dần sang thu thuế GTGT bởi đó là nguồn thu thuế tiện dụng và công bằng hơn.

Không nên để người dân hiểu sai ý nghĩa của thuế BVMT

Theo Bộ tài chính, hiện thuế BVMT có xăng, dầu đang chiếm hầu hết trong tổng thu ngân sách từ thuế bảo vệ môi trường (dao động 93%) nhưng vấn đề ô nhiễm môi trường giai đoạn này của Việt Nam vẫn đang ở mức báo động. Điều đây phần nào cho thấy số tiền thu từ thuế từ dân để bảo vệ môi trường chưa được sử dụng hiệu quả. Vì vậy, người dân hoàn toàn có thể đặt ra câu hỏi liệu việc tăng thuế lên 4.000 đồng/lít có giúp cho Việt Nam bảo vệ môi trường tốt hơn?

– Đây là 1 trong các nguyên do tôi không đồng tình có việc tăng thuế BVMT vì nó làm sai lệch thông điệp về bảo vệ môi trường. Đã phần thuế đó là thuế bảo vệ môi trường thì phải dùng số tiền đó cho vận hành bảo vệ môi trường.

tang thue bvmt la day ganh nang thu ngan sach len vai nguoi ngheo hinh anh 5

Một phương án bảo vệ môi trường là dùng thuế để điều tiết hành vi tiêu dùng, dịch chuyển mọi người sang sử dụng các hàng hóa ít tác động tới môi trường hơn. Trong dự thảo có nêu 1 số sản phẩm, hàng hóa điển hình như túi nilon, dung dịch HCFC. Đó là các hàng hóa mà ta có thể tiến hành chính sách phân phối hàng thuế khiến giá cả của chúng tăng, từ đó người tiêu dùng sẽ ít sử dụng các hàng hóa này.

Và ý nghĩa chính không phải là tăng thu cho ngân sách, mà là để người dân hạn chế tiêu dùng các hàng hóa này. Đó là 1 1 sốh giúp bảo vệ môi trường.

Một 1 sốh khác là dùng phần thuế thu ngân sách liên quan tới môi trường để đầu tư, tái tạo môi trường như tăng giải pháp kiểm soát ô nhiễm không khí, nạo vét làm sạch kênh rạch, xử lý rác thải… Khi sử dụng tiền thuế BVMT đúng có mục đích, ý nghĩa của nó, cơ quan quản lý sẽ nhận được sự đồng thuận từ người dân.

Nếu thu thông qua thuế BVMT để bù đắp ngân sách, trong khi chất lượng môi trường không được cải thiện thì mọi thứ dễ phát triển thành sáo rỗng, tạo thông điệp sai. Bản thân tôi không đồng tình có giải pháp này.

Nếu thu có danh nghĩa bảo vệ môi trường thì không chỉ xăng, mà điện, gạo và 1 số mặt hàng khác cũng có thể chịu thuế bảo vệ môi trường.

tang thue bvmt la day ganh nang thu ngan sach len vai nguoi ngheo hinh anh 6

Trong khi nhiều chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng Bộ Tài Chính chỉ cần đẩy mạnh cổ phần hoá công ty nhà nước, đưa công ty niêm yết trên sàn chứng khoán để phân phối vốn nhà nước là có được 1 nguồn thu lớn, ví dụ như trường hợp phân phối cổ phần Sabeco, Vinamilk vừa rồi.

Hay như chính sách phân phối hàng thuế phí liên quan đến công ty trong nước cần cải thiện, cắt giảm để hỗ trợ công ty vận hành hiệu quả kinh doanh tốt hơn. Đây mới là nguồn thu bền vững cho ngân sách, nhưng điều này Bộ Tài chính đang thực hiện chưa hiệu quả. Ông bình luận gì về ý kiến này?

– Đây là 1 hướng đi có tính lâu dài. Nhà nước tạo môi trường kinh doanh tốt cho công ty phát triển, cải 1 sốh, cổ phần hóa 1 số DNNN để tạo động lực mới cho phát triển sẽ giúp cho nguồn thu ngân sách nhiều hơn.

Việc phân phối cổ phần DNNN sẽ có về 1 số tiền lớn, không chỉ bù đắp thiếu hụt NSNN mà còn có tiền đầu tư cho cơ sở hạ tầng, dịch vụ, đồng thời giảm sức ép thu NSNN. Điều này hoàn toàn đúng định hướng của Chính phủ.

Nhưng có 1 xu hướng ở 1 số nước phát triển là họ rất minh bạch, rõ ràng trong việc dùng nguồn thu gì chi cho mục tiêu gì. Nếu anh dùng phần thu của cái này để chi cho cái kia nhưng sau đó không chi được như kế hoạch hoặc chi không hiệu quả thì phải giảm thu xuống.

Ở nhiều nước họ thu phí xăng dầu, nhưng sau đó không chi cho bảo vệ môi trường mà chi cho giáo dục, y tế. Nhưng họ rất rất rõ ràng trong vấn đề thu – chi ngân sách, ở đó là dùng nguồn thu này để bù đắp cho vấn đề kia.

Có các khoản thu đặc biệt mà phải dùng các sắc thuế, phí đặc biệt để bù đắp. Những khoản đó phải có sự minh bạch, có thể giám sát để biết nó được sử dụng đúng mục đích, chứ không phải dùng chung cho toàn bộ 1 số mục đích.

Nếu không làm bởi thế sẽ dẫn tới toàn bộ 1 số nguồn thu hòa vào chung trong tổng thể NSNN, dẫn tới hiện trạng tù mù trong câu chuyện chi hay nói 1 sốh khác là chi không đúng mục đích. Lúc này, các khoản thu về cũng dễ trở thành các khoản thu không kiểm soát đúng đối tượng. Điều này tạo 1 ngân sách không được minh bạch.

Ví dụ, khi thu thuế xăng, dầu, có thể người nghèo không phải là đối tượng chính sách phân phối hàng ảnh hướng tới khi thu nhưng lại là đối tượng chịu ảnh hưởng lớn.

Xin cám ơn ông!

Số liệu được Bộ Tài chính ra mắt trước đó cho thấy, trong tổng số 42.300 tỷ thuế bảo vệ môi trường thu được năm 2016, ngân sách đã chi dao động 12.290 tỷ đồng, đạt 1% tổng chi ngân sách.

Giai đoạn 2012-2016, thu ngân sách từ thuế bảo vệ môi trường đã tăng gấp 4 lần, từ 11.160 tỷ đồng lên 41.924 tỷ đồng. Có nghĩa, trong 4 năm, số thu đã tăng thêm 30.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, chi ngân sách cho bảo vệ môi trường năm 2012 là 9.000 tỷ, thì năm 2016 cũng chỉ dừng ở mức 12.290 tỷ, tăng hơn 3.000 tỷ đồng.

Tìm hiểu thêm tài liệu dự án canhosunwahpearl.edu.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0913.756.339
0913.756.339