Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân trình Chính phủ “bản điều trần”

Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân đã có báo cáo tổng hợp phản ánh, kiến nghị về gặp khó, vướng mắc của doanh nghiệp gửi Chủ tịch Hội đồng giải đáp cải 1 vàih thủ tục hành chính. Báo cáo này sẽ được 1 vài bộ ngành góp ý trước khi chính thức trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 2/2018.

ban nghien cuu phat trien kinh te tu nhan trinh chinh phu "ban dieu tran" hinh anh 1

Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân đã tổng hợp đề xuất của 1 vài doanh nghiệp trình Chính phủ

Các phản ánh, kiến nghị nêu lên trong báo cáo được Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (gọi tắt là Ban Nghiên cứu) tổng hợp ở hội nghị đối thoại doanh nghiệp tổ chức hồi tháng 12/2017. Nội dung 1 vài phản ánh tập trung vào 1 vài lĩnh vực: nông nghiệp, du lịch, kinh tế số và khởi nghiệp sáng tạo, đầu tư tài chính…

6 bất cập của ngành nông nghiệp

Theo Ban Nghiên cứu, 1 vài doanh nghiệp cho rằng chính sách phân phối hàng lôi kéo đầu tư vào nông nghiệp còn chưa hiệu quả, chưa thiết thực, thiếu tính ổn định, độ quyến rũ cũng như độ an toàn/bền vững của chính sách phân phối hàng không cao.

Bên cạnh đây, quy trình thủ tục để tiếp cận ưu đãi, nhận ưu đãi còn rườm rà, phức tạp, tốn nhiều thời gian, công sức của doanh nghiệp. Các chính sách phân phối hàng về thuế (VAT, lương doanh nghiệp doanh nghiệp, lương cá nhân…) còn bất bình đẳng giữa 1 vài chủ thể trong cộng 1 lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vì giai đoạn này chính sách phân phối hàng thuế đang bảo hộ người nông dân so có doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp cũng cho rằng chính sách phân phối hàng khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn chưa thích hợp. Cụ thể, quy trình thủ tục thành lập vùng, thủ tục chứng nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn phức tạp; 1 vài hoạt động chứng nhận và cấp 1 vài loại giấy phép đang chủ yếu do cấp trung ương thực hiện khiến doanh nghiệp gặp nhiều gặp khó và mất thêm kinh phí.

Sàn chuyển nhượng nông sản cũng chưa “đúng nghĩa” để có thể kiểm soát được chất lượng, sản lượng và giá trị cho nông sản cũng như thúc đẩy 1 vài doanh nghiệp nông nghiệp phát triển thương mại điện tử, chú trọng truy xuất lý do, chắc chắn an toàn thực phẩm.

Một điểm bất cập nữa là dù sản lượng xuất khẩu đã tăng lên hàng năm nhưng giá trị nông sản so có 1 vài nước trong khu vực lại chưa cao. Nguyên nhân là thói quen sử dụng 1 vài vật tư nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật 1 1 vàih tùy tiện, ảnh hưởng đến chất lượng nông sản của người sản xuất. Do vậy, thương hiệu nông sản Việt ở phân khúc đẳng cấp không cao dẫn đến giá trị kinh tế thấp.

Theo 1 vài doanh nghiệp, cơ chế hợp tác công tư trong xúc tiến thương mại ngành nông nghiệp còn hạn chế, hình thức, ít hiệu quả. Việc không xác định được phân khúc trọng tâm dẫn đến phân bổ nguồn lực bất hợp lý. Hơn nữa, 1 vài chương trình xúc tiến còn hình thức, chưa thực sự kết nối được nhu cầu của 1 vài phân khúc có tiềm năng sản xuất trong nước nên nhiều nguồn lực của cả hai phía công – tư còn bị lãng phí.

Các doanh nghiệp cũng kiến nghị Chính phủ cần có thêm 1 vài chính sách phân phối hàng đặc biệt và kịp thời cho ngành tôm giống để tăng cường ngành tôm, chắc chắn sự phát triển bền vững cho 1 vài vùng nuôi, trồng tôm giống.

Chính sách thị thực đang cản trở ngành du lịch

Theo Ban Nghiên cứu, trong năm 2017, ngành du lịch Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể nhờ 1 loạt cơ chế, chính sách phân phối hàng thích hợp. Tuy nhiên các kết quả giai đoạn này vẫn chưa đủ để tạo nên sự phát triển bền vững cho ngành du lịch. Nguyên nhân là mới chỉ chú trọng số lượng mà chưa phải chất lượng du khách; quá trình phát triển nóng về du khách chưa đi cộng có phát triển năng lực quản lý điểm đến và thi công 1 vài sản phẩm du lịch đặc biệt…

Cụ thể, đầu tư quảng bá xúc tiến du lịch quốc gia chưa tương xứng có mục tiêu phát triển và tiềm năng du lịch quốc gia. Ngân sách quốc gia dành cho xúc tiến, quảng bá du lịch còn quá thấp so có tiềm năng, mục tiêu của ngành.

Việc chi ngân sách còn dàn trải, kém hiệu quả, không gắn có phân khúc trọng tâm. Các hoạt động thu chi, quyết toán… cho quảng bá, xúc tiến hoàn toàn không tạo điều kiện thúc đẩy cho hoat động này và do vậy khiến 1 vài đơn vị thực hiện gặp nhiều gặp khó khi thi công 1 vài nội dung quảng bá.

Chính sách thị thực cho khách quốc tế đến Việt Nam đang là rào cản của ngành du lịch. Các doanh nghiệp cho rằng chính sách phân phối hàng thị thực của Việt Nam không có sức tranh đua và quyến rũ so có 1 vài quốc gia trong khu vực; thời gian miễn thị thực trung bình chỉ được 15 ngày, ít hơn 1 vài nước láng giềng. Chính phủ lại thường ra mắt danh sách 1 vài nước được miễn thị thực theo từng năm 1 và trước thời điểm ứng dụng chỉ 1 – 3 tháng do vậy gây gặp khó cho việc lôi kéo khách.

Môi trường điểm đến du lịch còn chưa được quản lý đúng mức và chuyên nghiệp, làm giảm đáng kể lượt du khách muốn quay lại Việt Nam. Theo WEF, mức độ an ninh và an toàn của Việt Nam chỉ đứng ở trên trung bình (hạng 57). Đáng chú tâm, 1 vài chỉ tiêu về môi trường đứng ở thứ hạng thấp và rất thấp. Du khách quốc tế phản ánh 1 loạt 1 vài điểm xấu của du lịch như bị gian lận, bị làm phiền, thói quen xả rác bừa bãi của người bản địa, độ an toàn khi tham dự giao thông thấp…

Theo 1 vài doanh nghiệp, thái độ ứng xử của cơ quan công quyền đối có doanh nghiệp còn nhiều tùy nghi, lạm dụng thực thi chính sách phân phối hàng pháp luật để làm khó doanh nghiệp. Tình trạng giao tiếp ứng xử tùy nghi, vòi vĩnh, lạm dụng thanh kiểm tra có doanh nghiệp rất phổ biến. Việc ứng dụng pháp luật cũng tùy nghi, ít công khai minh bạch, thiếu thống nhất trên dưới…

Nhiều điểm nghẽn trong kinh tế số và khởi nghiệp sáng tạo

Ban Nghiên cứu cho rằng quá trình hình thành nền kinh tế số cũng như phát triển 1 vài thành phố thông minh ở Việt Nam, quá trình khuyến khích đổi mới sáng tạo để thúc đẩy sự chuyển dịch của nền kinh tế còn nhiều thách thức, chưa hội tụ 1 vài điều kiện thuận lợi cần thiết.

Cụ thể, chưa có chiến lược chuyển đổi số quốc gia nên 1 vài chính sách phân phối hàng triển khai còn thiếu vắng hoặc không đồng nhất có chủ trương lớn. Doanh nghiệp công nghệ tài liệu vẫn gặp sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và tư nhân ở NQ36A/NQ-CP về chính phủ điện tử; gặp gặp khó về quy trình thủ tục và biện pháp định giá sản phẩm công nghệ tài liệu ở Nghị định 102/2009/NĐ-CP; gặp rào cản đầu tư do quy định về phí viễn thông công ích ở Thông tư 572016/TT-BTC.

Chính sách cho 1 vài doanh nghiệp hoạt động mô hình kinh doanh mới, đặc trưng là 1 vài doanh nghiệp phát triển kinh số cần tiếp tục đã đi vào hoạt động cụ thể hơn. Doanh nghiệp công nghệ tài liệu chưa có chính sách phân phối hàng cụ thể để khuyến khích đầu tư; doanh nghiệp startup tuy có chủ trương mạnh mẽ nhưng khung pháp lý lại chưa đã đi vào hoạt động, đặc trưng vấn đề thương mại hóa 1 vài sản phẩm khởi nghiệp sáng tạo đang gặp nhiều gặp khó.

Các quy định pháp lý về giải đáp 1 vài nhà đầu tư rót tiền vào và rút vốn ra khỏi nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp chưa thật rõ ràng, minh bạch khiến hiện tượng “chảy máu” startup về hướng 1 vài quốc gia kế bên càng ngày càng nghiêm trọng hơn.

Bên cạnh đây, đến nay vẫn chưa thống nhất nhận thức, còn thiếu nguồn lực để phát triển thành phố thông minh; việc triển khai còn lúng túng, rời rạc, chưa huy động được nguồn lực tư nhân dẫn tới tăng lên kinh phí vốn.

Môi trường chính sách phân phối hàng và khung pháp lý hiện hành còn nhiều điểm gây gặp khó cho doanh nghiệp mở rộng, phát triển hoạt động kinh danh. Chính sách thuế có doanh nghiệp trong và ngoài nước còn nhiều bất cập.

Chẳng hạn như trong khi 1 vài đơn vị cung cấp dịch vụ qua biên giới như Google, Facebook, Grab chỉ phải trả thuế nhà thầu 5% thì doanh nghiệp Việt phải trả VAT, thuế người dùng và 20% thuế lương doanh nghiệp. Do vậy, 1 vài doanh nghiệp Việt đua nhau mở doanh nghiệp ở nước ngoài để tối ưu thuế.

Cổ phần hóa còn chậm, chế tài chưa nghiêm

Theo Ban Nghiên cứu, tốc độ cổ phần hóa cần được đẩy nhanh hơn và theo công đoạn rõ ràng từ đầu. Hiện ở, lượng chào phân phối cổ phần lần đầu ra công chúng của 1 vài doanh nghiệp nhà nước phổ biến ở mức 5 – 15%. Tuy nhiên theo tìm hiểu của VinaCapital, 1 vài trường hợp cổ phần hóa thường thành công hơn khi có công đoạn rõ ràng giảm mật độ có nhà nước trong 3 – 5 năm. Khi nhà đầu tư chưa thấy công đoạn trong thời hạn rõ ràng, sự tham dự của họ sẽ không được như mong muốn.

Ngoài ra, Ban Nghiên cứu cũng nhấn mạnh cần tạo sân chơi công bằng có chế tài rõ ràng, xử lý nghiêm 1 vài trường hợp vi phạm.

Chẳng hạn, Chính phủ đã có quy định về thời hạn 1 vài doanh nghiệp sau cổ phần hóa phải niêm yết trên sàn chuyển nhượng đại chúng và cũng đã có các lời cam đoan từ phía cơ quan quản lý để ứng dụng chế tài nghiêm khắc để thúc ép 1 vài doanh nghiệp chưa chịu lên sàn. “Tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa thấy doanh nghiệp nào bị phạt nặng”, Ban Nghiên cứu cho biết.

Tìm hiểu thêm tài liệu dự án canhosunwahpearl.edu.vn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0913.756.339