(Canhosunwahpearl.edu.vn) “Hải Phòng có thể thu được 300 – 400 triệu đồng mỗi chuyến hàng. Điều này có thể có hiệu quả cho địa phương, giúp địa phương có thêm tiền đầu tư hạ tầng. Nhưng đằng sau đây là năng lực tranh đua của DN giảm sút, số tiền đâyng thuế 30 tỷ đồng, thậm chí có thể lớn hơn sau mỗi năm giờ sẽ bị giảm đi” – ông Đậu Anh Tuấn nói.
Cảng Hải Phòng đang thu 20.000 đồng có mỗi tấn hàng rời nhập khẩu
Địa phương được lợi, Nhà nước thất thu?
Tại Hội thảo “Đảm bảo tính nhất quán trong điều chỉnh chính sách phân phối hàng để đạt mục tiêu tăng trưởng” do Bộ Kế hoạch & Đầu tư tổ chức sáng 19.9, ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã chia sẻ 1 câu chuyện về tác động của chính sách phân phối hàng thuế, phí lên vận hành sản xuất kinh doanh của công ty.
Theo ông Đậu Anh Tuấn, nhữngh đấy 3 ngày, ông nhận được thư của 1 DN ở Thái Nguyên phản ánh nghị quyết thu phí hạ tầng cảng biển của Hải Phòng. DN này sở từng hữu doanh thu dao động 800 tỷ đồng/năm, nộp ngân sách Nhà nước 30 tỷ đồng/năm nhưng hiện đang gặp nhiều gặp khó, đứng trước chọn lọc phải chuyển đổi ngành nghề kinh doanh.
Ông Tuấn chia sẻ “Nghị quyết thu phí hạ tầng cảng biển của Hải Phòng có hiệu lực từ đầu năm 2017. Trong đây, thu phí rất nhiều container. Cụ thể, 20.000 đồng có mỗi tấn hàng rời nhập khẩu.
DN hàng này hàng năm đều có những tàu lớn chuyển hàng tới cảng Hải Phòng. Từ đây, sẽ bốc hàng chuyển sang những tàu nhỏ hơn để vận chuyển bằng những con phố sông. Tàu lớn thường chỉ lưu lại từ 2 tới 3 ngày trên vịnh, không hề sử dụng cơ sở hạ tầng. Song mỗi chuyến hàng, DN thường mất từ 300 – 400 triệu đồng tiền phí hạ tầng cảng biển.
Chi phí tăng nhanh và đột ngột trong thời gian qua làm lợi nhuận DN giảm mạnh. Điều này khiến DN rất chán nản, phải giảm diện tích vận hành. Thậm chí, đứng trước chọn lọc phải chuyển đổi ngành nghề kinh doanh.
Tôi được biết, doanh thu của DN trên mỗi năm là dao động 800 tỷ đồng, nộp ngân sách mỗi năm 30 tỷ đồng. Hải Phòng có thể thu được 300 – 400 triệu đồng mỗi chuyến hàng. Điều này có thể có hiệu quả cho địa phương, giúp địa phương có thêm tiền đầu tư hạ tầng. Nhưng đằng sau đây là năng lực tranh đua của DN giảm sút, số tiền đâyng thuế 30 tỷ đồng, thậm chí có thể lớn hơn sau mỗi năm giờ sẽ bị giảm đi.
Rõ ràng, 1 khoản phí nhỏ có thể giúp ích cho Hải Phòng, nhưng gây tổn phí cho cả 1 quốc gia, làm giảm hiệu quả sản suất kinh doanh của DN, giảm giá trị xuất – nhập khẩu”.
Theo ông Tuấn, cần phải có 1 tiếng nói và hành động nhất quán của Chính phủ trong vấn đề này. Việc Hải Phòng thu phí hạ tầng cảng biển có những DN vận tải, đơn vị kinh doanh vận chuyển hàng vào cảng Hải Phòng có thể khiến nhiều địa phương khác có cảng biển ứng dụng theo.
Ông Tuấn cho rằng, việc thu phí để bù đắp kinh phí đầu tư, thi công cơ sở vật chất là thích hợp nhưng phải tính toán lợi ích quốc gia, hiệu quả kinh doanh của DN sau khi thực hiện điều này.
DN xuất khẩu tài nguyên thô để tránh thuế VAT
Về vấn đề thu thuế tài nguyên, ông Tuấn cho rằng, DN khoáng sản vẫn đẩy mạnh xuất khẩu tài nguyên thô do chịu ảnh hưởng từ chính sách phân phối hàng thuế giai đoạn này. Một phần lý do do chính sách phân phối hàng tính thuế tài nguyên của Việt Nam giai đoạn này đánh vào sản phẩm tinh lại cao hơn rất nhiều so có sản phẩm thô.
Theo ông Đậu Anh Tuấn (VCCI), chính sác thuế đang gây ảnh hưởng tới vận hành khai thác, chế biến, xuất khẩu tài nguyên của Việt Nam
Ông Đậu Anh Tuấn đánh giá: “Đơn giản như thuế tài nguyên hiện đang tính trên giá trị xuất khẩu. Nếu chỉ khai thác thô, thì giá chịu thuế tài nguyên tính theo giá trị thô. Nhưng nếu DN sàng lọc, chế biến nhằm tạo ra giá trị tăng thêm cho sản phẩm, thì giá chịu thuế tài nguyên lại tính theo giá của Hải quan khi xuất khẩu.
Nếu giá trị khai thác thô chỉ là 1 đồng, giá trị chế biến là 3 đồng thì khi DN chế biến sẽ phải chịu thuế tài nguyên trên 3 đồng giá trị đây.
Như vậy, DN không có nhu cầu chế biến sâu vì càng chế biến sâu, thuế tài nguyên càng cao. Có DN nói có VCCI rằng chúng tôi xuất khẩu nguyên 1.000 khối đá thô lợi hơn rất nhiều việc mài dũa 1.000 khối đá thô đây rồi mới xuất khẩu.
Chúng ta cứ kêu gọi DN đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm tinh, qua chế biến, nhưng chính nhữngh tính thuế tài nguyên của Việt Nam giai đoạn này lại khiến thuế đối có những sản phẩm qua chế biến chịu thuế VAT cao hơn so có sản phẩm khai khoáng, xuất phân phối luôn”.
Theo ông Tuấn, việc chỉ tập trung đánh thuế khoáng sản mà đưa ra chính sách phân phối hàng thuế không thích hợp có thể khiến ngành công nghiệp chế biến khoáng sản của Việt Nam chẳng thể phát triển được.
Tìm hiểu thêm tài liệu dự án canhosunwahpearl.edu.vn
Bạn có thể click vào đấy để so sánh toàn bộ giá của những căn hộ bình thạnh